Đảng CS Việt Nam đã làm được những gì cho Tổ quốc và Dân tộc?

Nguyễn Tiến Dân - Tác giả gởi CTM Media

- Quảng Cáo -
3-Paul Doumer – Toàn quyền Đông Dương, thời kì 1897 – 1902, trong cuốn hồi kí “Xứ Đông dương” của mình, đã đánh giá rất cao về người Việt: “Người An nam, chắc chắn là tộc người ưu trội so với các tộc người xung quanh. Người Cao miên, Ai lao và Xiêm la đều không thể chống lại được họ. Không một quốc gia nào trong Đế quốc các xứ Ấn độ có những phẩm chất như họ. Phải tới tận Nhật bản, mới có tộc người có phẩm chất của người An nam và giống như người An nam. Người An nam và người Nhật bản, chắc chắn có mối quan hệ thân tộc từ xa xưa. Cả hai, đều thông minh, cần cù và dũng cảm… So với các dân tộc khác ở Châu Á, trên tư cách người thợ và người lính, người An nam, vẫn xếp cao hơn một bậc”.
Cùng có phẩm chất ngang nhau vào đầu thế kỉ XX. Nhưng người Nhật, được những người thông minh – có tâm hồn cao thượng và giàu chất nhân văn lãnh đạo. Bởi thế, Dân tộc và Đất nước của họ, vươn lên không ngừng. Ngược lại, người An nam, bị Đảng CS nô dịch. Cho nên, bị “lưu manh hóa” và đã trở thành một lũ mọi rợ. Luật pháp, không còn. Thế vào đó, là cái thứ Luật rừng của Đảng CS. Hệ quả tất yếu: Luân thường – đạo lý, bị đảo lộn một cách hoàn toàn. Đồng tiền lên ngôi và thống trị Xã hội.
Dân tộc Việt, giờ đây, đã đánh mất đi truyền thống “thương người như thể thương thân”. Họ chẳng còn thiết tha bao dung – yêu thương và đùm bọc lẫn nhau nữa. Thoắt cái, tất cả đã bị biến thành một lũ dối trá – đê tiện. Từ cái lời hiệu triệu: “Hãy tự cứu lấy mình, trước khi trời cứu” của cựu Tổng Bí thư  Nguyến Văn Linh, cả Xã hội, giật mình bừng tỉnh. Phát pháo lệnh đó, đã châm ngòi cho sự hỗn loạn và thói sống gấp. Ai cũng chỉ nghĩ đến mình và sống cho riêng mình. Trèo lên đầu – lên cổ đồng loại để sống, cũng không từ. Ai cũng vô cảm – độc ác – man rợ và rừng rú. Như cái thuở, còn mông muội và ăn lông – ở lỗ…
Tuy vậy, “trong họa – có phúc”. Tiếng Việt của chúng ta, nhờ đó, mà trở thành ngôn ngữ Quốc tế. Đi đến đâu và ở khắp hang cùng – ngõ hẻm của Thế giới, cũng gặp những biển cảnh báo, ghi bằng tiếng Việt. Nội dung, “ăn cắp là phạm pháp và có thể bị phạt tù”. Không phải ngẫu nhiên, mà Quốc tế ưu ái và chỉ cấp riêng cho chúng ta, những tấm “kim bài” đó. Từ cái cô mũi hếch – mắt trắng dã Kiều Trinh, chuyên liến thoắng dạy Đạo đức cho dân chúng trên đài Truyền hình Quốc gia, cho tới ông Đại sứ, thay mặt cho nước nhà tại Hoa kỳ, ai cũng thạo nghề… “sáu ngón”.
Thực dân Pháp đến “khai hóa Văn minh” ở Việt nam và họ đã đem đến cho xứ sở An Nam mít của chúng ta, một bộ mặt rất văn minh và hiện đại. Sự văn minh và hiện đại ấy, đã và đang theo đuổi chúng ta, cho đến tận bây giờ. Những thứ đó, không dễ gì, có thể thay thế được. Trước hết, đó là những tuyệt tác kiến trúc. Tỷ như, dinh Toàn quyền Đông dương – nhà hát lớn Hà nội – nhà thờ Đức bà Sài gòn – viện Viễn đông bác cổ – cầu Long biên… Nhưng, có lẽ, đóng góp lớn nhất vẫn là: sáng chế và truyền bá thành công chữ quốc ngữ, cho dân Việt. Ngoài ra, không thể không kể thêm tới một hệ thống hạ tầng giao thông hoàn chỉnh – hiện đại, so với khu vực Châu Á, thời bấy giờ. Hoàn chỉnh và hiện đại như thế, nhưng trên phạm vi cả nước, bói không ra một trạm thu phí giao thông.
Hà nội đẹp, do được những con người có tâm – có tầm, quy hoạch một cách khoa học và bài bản. Hà nội cũng rất hiện đại. Bằng chứng, nó là thành phố đầu tiên ở Châu Á, được chiếu sáng bằng điện. Còn Sài gòn, lung linh đến mức, được bạn bè Quốc tế, gọi nó là “Hòn Ngọc của Viễn đông”.
Gần hơn nữa, vào những năm 60 của thế kỉ trước, người Mỹ kéo quân tới miền Nam Việt nam. Sang thăm Sài gòn vào thời kì đó và chứng kiến sự phát triển kì diệu của nó, Thủ tướng Lý Quang Diệu, đã phải nuốt nước bọt, mà ao ước: “hy vọng, là một lúc nào đó, Singapore sẽ phát triển giống như Sài Gòn”.
Bây giờ, sau khi đã dùng vũ lực để cưỡng chiếm toàn bộ Việt nam: lũ quỷ đỏ, căn bản, đã “băm nát Hà nội” (lời thú nhận của chính cái thằng lẻo mép Nguyễn Đức Chung). Hòn Ngọc của Viễn đông, thì bị đập đến biến dạng và bị quăng xuống bùn. Căn bệnh kinh niên của nó: nhầy nhụa – bẩn thỉu – lộn xộn – kẹt xe và tắc đường. Trên bình diện cả nước, sự vụ còn thê thảm hơn nhiều: ngài IL Houng Lee – Trưởng cơ quan Đại diện IMF tại Hà nội, đã từng rất “lạc quan”, về cái “triển vọng tươi sáng” của Việt nam. Ông ta, đã cặm cụi tính toán và trên cơ sở đó, đã đưa ra những cái mốc thời gian: Ngay cả khi, đã “chạy đến phọt cả cứt ra quần”, phải có thêm 18 năm nữa, Việt nam mới mong đuổi kịp được Indonesia – mất 34 năm nữa, để đuổi kịp Thái Lan và nhanh thôi, mất thêm 197 năm nữa, sẽ sờ được vào cái “phao câu” của Singapore.
Thế giới, đã từng tổng kết: Người Hàn, nhập sách của Nhật về, để dạy cho trẻ con nước họ: 20 năm sau, hóa Rồng. Người Việt, nhập chủ nghĩa Mác – Lê về, để thờ: 87 năm sau, đội được đít của thiên hạ.
Thú hóa con dân Đất Việt và kéo lùi sự phát triển của Dân tộc. Đó là cách thứ 3, mà những người CS đã làm, để tri ân đất Mẹ và cũng là cách, mà chúng đã dùng, để báo hiếu cho quê hương Việt nam.

4-Mở đầu cho Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã long trọng tuyên hứa: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Ngay sau đó, để chứng tỏ cho cái Chính nghĩa sáng ngời của mình, ông ta đã tuyên hứa tiếp: Sẽ đoạn tuyệt với bất cứ thể chế Chính trị man rợ nào, nếu chúng đi ngược với quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân:

Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào… Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta… Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn”.
Bây giờ, ngồi điểm lại, hết sức dễ dàng thấy: Tất cả những lời nói đó, đã được đồng đảng của ông ta thực hiện một cách đầy đủ – trọn vẹn và trên cả mức tuyệt vời. Những quyền tối thiểu của một con người, cũng bị Đảng CS tước đoạt sạch. Dân chúng, có quyền ăn đồ ôi thiu và độc hại của Tàu. Nhưng không có quyền mở mồm, để nói ra sự thực.
Đảng CS, đã thiết lập ở Việt nam, một chế độ Độc tài. Ở đó, mọi quyền lợi và quyền lực của Đất nước, không còn thuộc về Nhân dân. Nó cũng không thuộc về Đảng CS – một cái thứ, về thực chất, chỉ đóng vai trò bung xung. Sự thực, tất cả những thứ đó, bị thâu tóm bởi một nhóm nhỏ những ông trùm Mafia đỏ. Dĩ nhiên, vẫn theo nếp xưa, “cha truyền – con nối”. Tất cả bọn chúng: được độc quyền Chân lý – được độc quyền lãnh đạo và được độc quyền ban phát. Mọi nghị quyết của Đảng, do những thằng đần đưa ra, dù đúng – dù sai, chẳng phải chỉ đảng viên, mà tất cả mọi người dân, đều phải có nghĩa vụ và trách nhiệm, nhắm mắt mà thi hành.
Thằng mắt sáng, phải đi theo sự chỉ dẫn của những thằng mù – những thằng, cả đời, chỉ biết có ăn và phá hoại. Ăn một, chúng phá mười. Hậu quả, Dân tộc này, đi lạc lối. Nguyễn Phú Trọng, thằng trốn nghĩa vụ Quân sự trong những năm gian khổ – ác liệt nhất của Chiến tranh, giờ đây, ngoi lên làm Chính ủy của toàn Quân. Dưới sự lãnh đạo “toàn diện và tuyệt đối” của cái thằng nhát chết đó, chúng ta bị Tàu cộng ép, như ép giò. Việt Nam, rơi vào thế, mà sự tồn vong của Dân tộc, đang ở trong trạng thái “ngàn cân, treo sợi tóc”.
Phân hóa giàu nghèo, cũng sắp đạt đến mức cực đỉnh. Từ đó, kéo theo những hệ lụy không dễ giải quyết trong ngày một – ngày hai. Bất công khủng khiếp trong Xã hội, cũng theo đó, mà phát sinh.
Tất cả tài nguyên của đất nước, từ của nổi – cho đến của chìm, từ lâu, đã không còn thuộc về Nhân dân nữa. Tất cả, đều bị băng nhóm Mafia đỏ đào bới – khai thác theo lối tận diệt. Dễ thấy nhất: Rừng già, về cơ bản, đã bị chúng đốn sạch. Đất đai của Tổ quốc, chỗ thì chúng tùy tiện sang nhượng cho ngoại bang – chỗ nào chưa thể, chúng đều dẫn ngoại bang vào, tống cổ dân bản địa đi, để cho lũ kia thuê với cái giá rẻ mạt… Tất cả những nguồn lợi đó, Đảng CS đã thâu tóm sạch, để chia chác cho nhau. Chúng không cần, phải “hỏi ý kiến của Nhân dân” trên mọi lĩnh vực và chúng cũng không hề cho người dân, được hưởng tí sái nào. Không những thế, chúng còn bày đặt ra sưu cao – thuế nặng, khiến dân nghèo lụn bại. Đó, vẫn chưa phải là tận cùng của sự tham lam và ác độc. Chúng còn đi vay vô tội vạ, với lãi suất cắt cổ của Quốc tế về, để tiếp tục chia nhau và bổ đầu người dân, bắt họ phải gánh chịu.
Cái Chế độ mà Hồ Chí Minh đã cực lực lên án và đả phá, buồn thay, lại chính là Chế độ CS. Trong cái chuyện tiên tri, ai dám bảo: “Hồ Chí Minh, kém Trạng Trình?”.
Đánh đổ chế độ Thực dân – Phong kiến thối nát. Thay vào đó, là một thể chế Độc tài, so độ thối nát và man rợ, còn kinh khủng hơn nhiều.
Đó là cách thứ 4, mà những người CS đã làm, để tri ân đất Mẹ và cũng là cách, mà chúng đã dùng, để báo hiếu cho quê hương Việt nam.
5-Này, Phú Trọng!
Từ thời thượng cổ, người nước Nam ta, chuộng cả “” lẫn “”. Cho đến tận bây giờ, vẫn vậy và không hề thay đổi. Chưa ở đâu và chẳng bao giờ, trong các đền thờ – chùa chiền – miếu mạo, lại dựng tượng và đi thờ một gã hoạn lợn thất đức hoặc cái thằng lâm tặc dâm dê. Lão biết, chú không thuộc hai cái dạng kể trên. Trên cả “”, chú còn là “giáo sư” – trên cả “”, chú còn là “tiến sĩ”. Cả đời, cái tăm, chú cũng không biết vót. Nghề thạo nhất của chú, là cạo giấy. Lì đến mức, “mắt, thong manh – đít, thâm xì”. Sở học, ắt thuộc hàng thượng thặng – Bản lĩnh, ắt thuộc dạng phi thường. Nghe cái danh “sĩ phu Bắc hà” của chú, khác nào, bị đấm vào tai. À quên, như “sấm động bên tai”. Lão già đây, ngưỡng mộ vô cùng. Cùng với nó, là nỗi khát khao, được “mắt thấy – tay sờ” vào cái đại danh ấy. Để xem, hư – thực của nó, như thế nào.
Dịp may ấy, cuối cùng, rồi cũng tự trên trời rơi xuống. Khi chính chú, chẳng biết có bị chập mạch hay không, mà ngứa mồm và cho Võ Văn Thưởng – cái loại “vắt mũi còn chưa sạch”, mang loa đi rao khắp làng trên – xóm dưới, đòi khiêu chiến với cả thiên hạ. Thấy lạ, lão cũng mon men ra xem và có kí tên vào chiến thư của chú. Lão hẹn: “Ngày mai, quyết chiến”. Xong xuôi, lão quay về lấy gậy và ra chiến địa, ngồi chờ. Ngày này, trôi qua – tháng khác, lại gần. Chim trời, có nhìn – cá nước, có thấy – riêng chú, bặt tăm. Chắc chú quên, chứ tầm như chú, sao lại có thể sợ lão Dân già đến mức, “sun cả chim lại”, như thế.
Nếu chú quên, qua sứ giả Internet, lão tái gửi thư tới chú. Nếu có giỏi, hãy phê vào đó và mang cái mớ lí sự cùn Mác – Lê ra, mà thi đấu cho nó đàng hoàng. Đừng chỉ lèm bèm, đối thoại mãi với mấy ông/bà già cổ hủ và sắp chui xuống lỗ trong các cuộc tiếp xúc với cử tri nữa. Đừng nấp mãi trong đũng quần của mấy thím Công an nữa. Như thế, nhục nhã thay, cho các đấng nam nhi và hổ danh thay, cho các “sĩ phu Bắc hà”. Nếu thấy, vẫn chưa đủ tự tin, hãy xua thêm bọn đầu lâu – xương chéo của chú ra và dùng phép “tiền pháo – hậu binh”. Trước, nhốt lão Dân già vào đồn và đánh cho lão ấy mềm xương. Sau, mở phiên Tòa và kéo cả lò – cả ổ ra, để xem cái cách, mà lão đây hạ nhục cả chú, lẫn cái thể chế Chính trị của chú. Thê thảm lắm, Trọng ạ:
Thứ nhất, cái thể chế Chính trị của chú, đã lừa đảo và ăn cướp của lão Dân già. Nhân chứng – vật chứng, nhiều đến mức, quá dư thừa. Từ cổ – chí kim, từ Đông – sang Tây, người ta đều phải gọi các chú, là lũ tội phạm.
Là tổ chức tội phạm, liệu các chú có dám bất chấp tất cả, để làm cái chuyện “chó leo bàn thờ”. Nghĩa là, ngồi vào cái ghế Quan tòa, để xét xử nạn nhân?  Chuyện này mà lộ ra, nói thật, đến chó nó cũng không ngửi được. Nếu chú ngửi được, đừng ngần ngại, hãy làm đi. Đó, là điểm yếu thứ 2 của các chú.
Thứ 3, với 2 nhân tố kể trên, khi xử lão, các chú không thể đem cái thứ, mà nhân gian vẫn gọi là Luật pháp ra, để sử dụng được. Bắt buôc, các chú phải dùng đến cái thứ, mà xưa – nay, các chú vẫn giấu, “như mèo giấu cứt”. Đó chính là, Luật rừng của băng đảng CS. “Chính nghĩa” của các chú, sẽ bị lão đây, cho “lộn mề gà”.
Cuối cùng, quan trọng nhất, người đối diện và đối thoại với chú, bằng cấp chẳng đầy mình như chú. Nhưng cả lí luận lẫn thực tiến, chắc dư sức, để nhấn chìm xuống bùn, cả chú lẫn cái đám đồng đảng đểu của chú.
Đừng manh động và đừng có điên đến mức, phải làm theo cái kịch bản đó, Trọng nhé. Hãy nâng lão Dân già, như nâng trứng mỏng và hãy treo cổ bất cứ đứa nào muốn hại chú, thông qua việc, định sờ “phao câu” của lão Dân già.
Lão đây hẹn và rất muốn: bình tĩnh, ngồi đối thoại sòng phẳng với chú, về rất nhiều vấn đề. Trong đó, có cả cái mớ tiền, mà các chú đã lừa đảo và ăn cướp của lão. Nuốt không trôi được đâu, Trọng ạ. Bởi, lão đây, là Dân già. Lão không phải là Trịnh Văn Bô và cũng không phải là Trịnh Vĩnh Bình. Bắt nạt và ăn cướp của lão, đâu có dễ. Nhớ cho kĩ, điều đó.
Chào chú và lão sẽ chờ, để được đọc bài phản biện của chú.
Nguyễn Tiến Dân
 
Tel:  0168 – 50 – 56 – 430
Địa chỉ: Vì tin vào cái lũ CS đê hèn, nên bị chúng lừa đảo và cướp sạch của cải. Bởi thế, mất nhà và trở thành dân du mục. Nay đây – mai đó, chưa có nơi ở cố định
- Quảng Cáo -

4 CÁC GÓP Ý

Chúng Tôi Mong Có Góp Ý Kiến Thêm Từ Quý Vị

Please enter your comment!
Please enter your name here