Quảng Cáo

Những mảnh ghép về Hà Nội

Quảng Cáo

Hà Nội có vẻ đẹp bí ẩn của cô gái nửa Á nửa Âu, như bức tranh mosaic. Đó là vẻ đẹp càng ngắm càng say mê, càng ở lâu càng quyến rũ. Mỗi khi đi xa lòng vẫn nhớ về Hà Nội, nhất là Hà Nội mùa thu, với cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ, tiếng dương cầm trong căn nhà đổ, mái ngói xô nghiêng, như còn vọng tiếng chuông ngân… Hình ảnh tuy đơn sơ nhưng mê hoặc lòng người, không chỉ với người Việt mà còn với người nước ngoài.

Hà Nội của tôi

Đại sứ Pháp Jean Noel Poirier yêu Hà Nội nên đã làm bộ phim tài liệu “Hà Nội của Tôi” (Mon Hanoi, 2017) do anh viết kịch bản và đạo diễn, để ghi lại hồn cốt và “bí mật của Hà Nội mà nhiều người dễ bỏ qua”, như văn hóa hè phố độc đáo. Đó là góc nhìn và cảm xúc của một người Pháp sống nhiều năm ở Hà Nội, nên đã “phải lòng” thành phố này như “quê hương thứ hai”. Sau khi nghỉ, anh mở một tiệm giặt là ở phố Hàm Long, Hà Nội.

Nhiếp ảnh gia người Mỹ William Crawford cũng yêu Hà Nội, nên đã đến thành phố này hàng mấy chục lần trong suốt ba thập kỷ (từ năm 1985) để ghi lại những hình ảnh của Hà Nội qua những biến đổi của thời gian và không gian. Đó là những tư liệu quý và hấp dẫn về Hà Nội, đã được triển lãm tại Việt Nam và bảo tàng ở Mỹ, và đã xuất bản thành sách (Hanoi Streets 1985-2015: In the Years of Forgetting, William Crawford, 2018).

Anh đã cất công ghi lại khá chi tiết kiến trúc thuộc địa và bản địa, cảnh quan đô thị và chân dung người dân trong không gian riêng tư tại các đường phố Hà Nội và khu vực ngoại ô. Cuốn sách đó đã tổng hợp được những bức ảnh màu đầy cảm xúc, kèm theo hồi ký với góc nhìn trực quan của chính tác giả về con người Hà Nội, về sự thay đổi và phát triển của thành phố và dân cư, đặc biệt là di sản khu phố cổ, với “Hà Nội 36 phố phường”.

Michael DiGregorio là đại diện Asia Foundation tại Việt Nam (từ 2014) và tham gia nhóm công tác về năng lượng của AmCham. Trước đó, Michael đã làm cho Ford Foundation tại Việt Nam (2002-2009). Anh đã sống ở Việt Nam gần ba thập kỷ, nên “phải lòng” Hà Nội. Lý do Michael đã gắn bó với Hà Nội như “quê hương thứ hai”, không chỉ vì lấy vợ Việt, mà còn vì Hà Nội đã hấp dẫn anh bởi nhiều di sản lịch sử và văn hóa đầy nghịch lý.

Tại sao du khách thập phương khi đến Hà Nội chỉ thích khu phố cổ, tuy chật chội và đông đúc? Mỗi thành phố thường có hồn cốt riêng (ambiance), và khu phố cổ với “Hà Nội 36 phố phường” mang đậm hồn cốt của di sản thành Thăng Long. Chẳng ai muốn đến một thành phố tuy hiện đại nhưng vô hồn như thủ đô Naypyidaw của Myanmar. Bên cạnh khu phố cổ, Hà Nội còn có “khu phố Tây” lịch lãm với nhiều biệt thự Pháp từ thời thuộc địa.

Martin Rama là chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam trong 8 năm (2002-2010). Anh là tác giả cuốn “Những quyết sách khó khăn: Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi”. Anh không chỉ là chuyên gia kinh tế, mà còn là nhà hoạt động nghệ thuật nghiệp dư, đã “phải lòng” Hà Nội ngay từ lần đầu (10/1998). Sau nhiệm kỳ Việt Nam, anh đã viết cuốn “Hà Nội, một chốn rong chơi” (Giải thưởng Bùi Xuân Phái 2014).

Cuốn sách đó là lời tỏ tình của Martin Rama với Hà Nội, tuy “xa mặt nhưng không cách lòng”. Trong cuốn sách, anh đã gọi Hà Nội là “nàng thơ” khi kể câu chuyện tình yêu của mình với Hà Nội. Với anh, “nàng” không lộng lẫy như những thủ đô châu Âu, nhưng thực sự xinh đẹp với cá tính riêng của mình. Vào mùa hè, tính khí “nàng” hơi đỏng đảnh, mưa nắng thất thường, thậm chí nổi cơn bão tố, nhưng đến mùa thu nàng lại dịu dàng.

Martin Rama quan tâm không chỉ về tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, mà còn về phát triển đô thị bền vững (Sustainable Urban Development). Đó là một dự án do anh khởi xướng, và đề xuất bốn phương án để dung hòa phát triển đô thị với bảo tồn di sản văn hóa. Đó là (1) phân vùng; (2) xác định mục đích sử dụng đất; (3) quy chế; (4) khuyến khích. Theo anh, Hà Nội quyến rũ mọi người vì không gian văn hóa vỉa hè và những cây xanh.

Paris được yêu thích bởi văn hóa cà phê vỉa hè, một “cá tính” của thành phố. Hà Nội cũng có “văn hóa vỉa hè”, nơi mọi người kiếm sống, mua sắm, ăn uống, giao lưu, và hẹn hò… ngoài đường. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người yêu Hà Nội. Với các nhiếp ảnh gia, đó không chỉ là một thành phố xinh đẹp như tranh vẽ và giấc mơ, mà còn tràn đầy cảm xúc. Martin Rama đã tích cực vận động thành phố bảo tồn những di sản văn hóa.

Với vai trò giám đốc dự án tại Trung tâm Phát triển Đô thị Bền vững (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) Martin Rama đã tổ chức “giải cứu” thành công bức tranh tường ở ngã tư chợ Mơ, bị người ta đập đi để mở đường cho một dự án mới. Bức tranh tường nặng hàng chục tấn được di chuyển tới một địa điểm mới để khôi phục và bảo tồn với vai trò mới. Đó không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật tuyên truyền, mà còn là di sản văn hóa.

Martin Rama còn vận động thành phố bảo tồn ngõ 22A phố Hai Bà Trưng, một khuôn viên rất đẹp có vai trò quan trọng trong lịch sử thành phố, từng là địa chỉ của Hanoi Cinematheque. Với những lan can theo phong cách trang trí nghệ thuật Art Deco và một quán cà phê ngoài trời dễ thương, nó như một ốc đảo thanh lịch và yên bình giữa một khu phố ồn ào. Những nơi như vậy đã góp phần hình thành “cá tính” độc đáo của thủ đô Hà Nội.

Có thể nói Hà Nội là một bức tranh ghép nhiều sắc thái, tuy đa dạng nhưng hòa hợp trong một thành phố “tân cổ giao duyên”. Đó là di sản độc đáo cần bảo tồn. Gần đây, quy hoạch “Hà Nội mới” với diện tích mở rộng vì những động cơ thực dụng, đã làm cho Hà Nội biến dạng, với các “đô thị mới” (new towns) tuy hiện đại nhưng quy hoạch dở và vô hồn nên khó hòa hợp với “Hà Nội xưa”. Quy hoạch đô thị không chỉ nhằm xây nhà để bán.

Lợi ích nhóm

Trung Quốc đã cải cách thành công để kinh tế cất cánh, trở thành công xưởng của thế giới, trong khi Việt Nam vẫn chưa công nghiệp hóa, vẫn lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc và gia công hàng xuất khẩu cho các doanh nghiệp FDI. Nếu không xây dựng được nội lực để phát triển bền vững thì không thể độc lập và khó giữ được chủ quyền. Không phải Việt Nam thiếu cơ hội hay nguồn lực, mà thiếu tầm nhìn chiến lược và đổi mới tư duy.

Đối với các nước chậm phát triển hay “không chịu phát triển”, có hai thứ vô hình nhưng nguy hiểm là “chủ nghĩa đặc thù” (exceptionalism) và “chủ nghĩa tiệm tiến” (gradualism). Những người theo chủ nghĩa đặc thù thường lập luận rằng Việt Nam có đặc thù riêng nên không chấp nhận các giá trị phổ quát (không giống ai). Những người theo chủ nghĩa tiệm tiến lập luận rằng Việt Nam không nên đổi mới quá nhanh (giữ nguyên trạng).

Đổi mới “vòng một” ở Việt Nam tuy đã triển khai từ cuối thập niên 1980, nhưng nay đã hết đà. Đổi mới “vòng hai” vẫn dậm chân tại chỗ. Kinh tế Việt Nam không thể cất cánh “theo hướng rồng bay” vì ách tắc về thể chế chưa được tháo gỡ, làm cản trở cải cách và phát triển. Báo cáo “Việt Nam 2035, Hướng tới Thịnh vượng, Sáng tạo, Công bằng và Dân chủ” do Bộ KH-ĐT và World Bank soạn thảo (năm 2016) vẫn chưa được triển khai.

Theo mô hình 8 bước để “quản trị thay đổi” (Leading Change, John Kotter, 1995), bước đầu tiên là “cấp bách” (urgency). Theo lý thuyết “thay đổi quản trị” (The Future of Management, Gary Hamel, 2007) yêu cầu đổi mới còn cấp bách và triệt để hơn, mang tính đôt phá để cải tổ cách thức quản trị. Nhưng tại Việt Nam, chủ nghĩa đặc thù và chủ nghĩa tiệm tiến đã làm vô hiệu hóa quá trình đổi mới vì “quá ít và quá chậm” (too little too late).

Một lý do thành công của đổi mới “vòng một” chính là sự cấp bách (urgency). Chỉ khi nào bị dồn đến bờ vực tuyệt vọng (desperation), người ta mới “đổi mới hay là chết”. Nhưng sự thành công bước đầu của đổi mới “vòng một” đã tạo ra tâm lý “thỏa mãn” quá sớm và “vùng an toàn” (comfort zone), làm triệt tiêu động lực đổi mới. Theo các chuyên gia kinh tế, Việt Nam có thể để lỡ con tàu tốc hành công nghệ số, nếu chậm đổi mới thể chế.

Người Hà Nội thích đùa: “Hà Nội không vội được đâu”. Nhưng đại dịch và chiến tranh Ukraine là hai sự kiện bất ngờ làm cho người Việt giật mình tỉnh ngộ trước hiểm họa khó lường. Muốn đối phó với đại dịch, với biến đổi khí hậu, và mối đe dọa tại Biển Đông, người Việt phải có “đồng thuận quốc gia” (national consensus). Nếu phân hóa và chia rẽ thì không quốc gia nào có thể đứng vững trước các thách thức khó lường trong thế kỷ 21.

Khi vua Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long (năm 1010) chắc ông không hình dung được mình đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử lớn thế nào. Đối với bất cứ quốc gia nào, thủ đô không chỉ có giá trị địa chiến lược, mà còn là biểu tượng và hồn cốt của dân tộc. Vì vậy, trong chiến tranh, kẻ thù thường đánh chiếm và phá hủy thủ đô, để xóa bỏ di sản lịch sử và văn hóa dân tộc. Nhưng trải qua 1022 năm, Thăng Long vẫn trường tồn.

Nhưng Lý Công Uẩn dù có đầu thai sống lại, chắc không muốn sống ở Hà Nội vì giao thông ách tắc và không khí ô nhiễm. Chắc ông không thể hiểu được tại sao người Hà Nội lại chặt hạ 6.700 cây xanh (lá phổi của thành phố) và lấp nhiều hồ ao (là phong thủy của Hà Nội). Chắc ông cũng không thể hiểu được tại sao người Hà Nội lại thường xuyên đào vỉa hè lên để lát lại, như một “cái mỏ lộ thiên” mà các nhóm lợi ích khai thác mãi không hết.

Theo thống kê của Vietnamnet (23/3/2015), đã có hơn 70 bài báo trong nước và ngoài nước lên tiếng về vụ chặt 6.700 cây xanh Hà Nội. Điều đó nói lên tâm trạng bức xúc của người dân và vai trò của báo chí trước quyết định mất lòng dân của thành phố về môi trường. Sức ép của dư luận trong nước và ngoài nước đã buộc trung ương và thành phố phải điều tra, làm nhóm lợi ích buộc phải dừng tay. Một số quan chức đã bị kỷ luật hoặc bị truy tố.

Theo báo chí, chiến dịch cải tạo và lát lại vỉa hè tại 100 tuyến phố Hà Nội tốn hàng nghìn tỉ đồng ngân sách. Riêng trong giai đoạn 2013-2017, thành phố đã có kế hoạch chi 1.800 tỉ đồng để cải tạo vỉa hè. Sau khi thợ điện đào hè lên để đặt cáp rồi lấp lại, thợ nước lại đào lên để sửa ống nước. Việc đào lên, lấp xuống không phối hợp, không có thanh tra giám sát, nên chất lượng kém. Có nhiều tuyến phố vừa lát vỉa hè xong đã xuống cấp.

Theo Tiền Phong (30/3/2019) chánh văn phòng Hội Kiến trúc sư Việt Nam Phạm Thanh Tùng cho rằng những tuyến phố vỉa hè còn tốt thì không cần lát lại. Ông cho rằng điều cần nhất lúc này là Hà Nội phải đổi mới tư duy quản trị đô thị. Đã đến lúc thành phố phải có trách nhiệm với kinh phí của nhân dân. Không nên biến việc lát vỉa hè thành “dự án đầu tư có nhiều thất thoát”. Theo quy luật, tham nhũng là do không kiểm soát quyền lực.

Theo Lao động (3/11/2021) Công ty Cổ phần Môi trường Nhật-Việt (JVE Group) đề xuất phương án xây hầm ngầm chống ngập, kết hợp cao tốc ngầm để cải tạo sông Tô Lịch thành “công viên Lịch sử-Văn hóa-Tâm linh”. JVE áp dụng công nghệ Bio-Nano của Nhật để xử lý tận gốc mùi hôi, phân hủy tầng bùn đáy, xử lý chất ô nhiễm hữu cơ, diệt các vi khuẩn có hại đang tồn tại trong lòng sông và duy trì môi trường trong sạch.

Theo dự án JVE, để có thể làm hồi sinh sông Tô Lịch theo đúng nghĩa, cần giải pháp tổng thể như thu gom nước thải, cấp nước mới cho sông sau khi thu gom nước thải, xử lý triệt để nguồn gây ra mùi hôi như bùn đáy, tầng nước bị ô nhiễm trong lòng sông, và thoát nước khi mưa bão. Nhưng dự án JVE cải tạo sông Tô Lịch do Nhật tài trợ đã bị đình trệ do đại dịch, và không được ông Thị trưởng Nguyễn Đức Chung ủng hộ vì lợi ích nhóm.

Dự án “Bảo tồn, cải tạo, phát triển cầu Long Biên và các khu vực liên quan”, có tổng diện tích khoảng 310 ha, đã được Chính phủ Việt Nam phê duyệt như một bảo tàng và khu sinh thái của thành phố ven sông Hồng. Nếu dự án cải tạo sông Tô Lịch của JVE nhằm bảo vệ môi trường được Nhật bảo trợ thì dự án cải tạo cầu Long Biên nhằm bảo tồn di sản văn hóa được Pháp bảo trợ. Đó là hai điểm nhấn quan trọng để tôn tạo diện mạo thủ đô.

Giới tinh hoa

Việt Nam vốn có truyền thống trọng trí thức (như khẩu hiệu “nhất sỹ, nhì nông”) và hiếu học (như Văn Miếu). Nhưng ảnh hưởng của chủ nghĩa Mao đã đảo lộn các giá trị truyền thống, với khẩu hiệu cực đoan “trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”. Gần đây, người ta vẫn tranh luận về “định nghĩa trí thức”. Kết cục là số lượng trí thức tuy đông, nhưng chất lượng thấp, do hệ lụy của bằng giả để chạy chức và chạy theo thành tích.

Theo thống kê của Bộ GD-ĐT (đến 31/12/2019), Việt Nam có 619 giáo sư, 4.831 phó giáo sư, 17.035 tiến sĩ, 46.251 thạc sĩ. Một tỷ lệ rất cao. Theo Vietnamnet (5/5/2022) “luận án tiến sĩ phát triển môn cầu lông cho công chức” là có thật chứ không phải trò đùa. Đến năm 2020, cả nước có 224 trường đại học và 236 trường cao đẳng, nhưng không có trường đại học nào của Việt Nam được xếp hạng cao hơn 1000 trường trên toàn cầu.

Gần đây, nghệ sĩ Hồng Đăng và Hồ Hoài Anh đã làm cộng đồng mạng ồn ào khi bị bắt do cáo buộc tấn công tình dục thiếu nữ Anh 17 tuổi tại Tây Ban Nha. Câu chuyện chưa đến hồi kết nhưng dư luận đã sôi sục như “cơn bão trong cốc trà” (a storm in a tea cup). Các nghệ sỹ được công chúng thần tượng nên dễ gây tai tiếng. Không chỉ “Minh Béo” bị bắt tại Mỹ (2016) mà nhiều “nghệ sỹ ưu tú” đã dính vào nghi án “ăn chặn từ thiện”.

Thế giới mạng nay đã trở thành một thế lực đáng sợ vì sự bùng nổ của YouTube và Tik Tok. Việc gây tranh cãi trên mạng là một thú vui dễ kiếm tiền. Thế giới mạng sẽ đổ xô vào “bình loạn” bất kể chuyện gì gây tranh cãi, chủ yếu là để “câu view”. Từ bầu cử tổng thống Mỹ với nhân vật Donald Trump đầy kịch tính, đến chiến tranh tàn khốc giữa Nga và Ukraine gây phân hóa dư luận. Vụ Hồng Đăng và Hồ Hoài Anh không ngoại lệ.

Trong bối cảnh thế giới mạng đang góp phần vào một cuộc khủng hoảng truyền thông mới, thì người dân tại các xã hội đang chuyển đổi (transitional) như Việt Nam vốn có nền tảng dân trí thấp, càng dễ ngộ nhận và dễ trở thành nạn nhân. Hàng ngày, họ bị các YouTubers và TikTokers tấn công ào ạt qua nền tảng mobile, và bị bội thực bởi có quá nhiều phim Tàu và các chương trình giải trí hay quảng cáo rẻ tiền trên các kênh TV và radio.

Đây là những vấn đề nổi cộm về văn hóa ứng xử trong xã hội do dân trí thấp, dễ ngộ nhận. Đó còn là hệ quả của hệ thống giáo dục làm thui chột thế hệ trẻ. Cách đây đã lâu, một vị lãnh đạo đã nhận xét: “chất tượng giáo dục nước ta rớt nhanh như nhảy dù”. Tuy ngành giáo dục có tiến hành cải cách, nhưng sau mỗi lần cải cách lại càng tụt hậu, vì không chú trọng đến thực chất mà chỉ chú trọng đến hình thức như hô khẩu hiệu cho phong trào.

Hồng Đăng và Hồ Hoài Anh được coi là thành phần “tinh hoa” (elite) trong xã hội, nhưng có thể là sản phẩm lỗi của hệ thống giáo dục. Họ lớn lên trong một xã hội khép kín, thiếu pháp quyền. Để tồn tại, họ thường phải sống hai mặt để che đậy mặt trái của mình. Khi đã có nhiều tiền và có dịp ra nước ngoài, họ muốn “đổi đời” để thỏa mãn “phần con”, hơn là nâng cấp “phần người”. Nói cách khác, đó vẫn là dân trí thấp trong văn hóa ứng xử.

Vì quen được công chúng trong nước thần tượng nên họ dễ ngộ nhận. Khi ra nước ngoài, họ vẫn tưởng mình là “người nổi tiếng”. Một số người theo thuyết âm mưu còn lập luận rằng họ bị gài. Thường ở nước nào cũng có lừa gạt và tống tiền, nhưng không đâu có nhiều cạm bẫy và lừa gạt như ở Việt Nam, mà có người đã ví như “Thập diện Mai phục”. Nếu có dân trí cao, hiểu biết rộng, và văn hóa ứng xử tử tế, thì chẳng ai gài bẫy được họ.

Lời cuối

Cách đây 20 năm, vụ án “Thủy cung Thăng Long” (ở Hồ Tây), đã làm một số quan chức phải vào tù hay mất chức. Nay dự án khổng lồ “Sungrand City” tại Quảng An (Tây Hồ) được phép xây dựng đã gần xong. Tuy không có trong quy hoạch, nhưng họ có cách “điều chỉnh quy hoạch” (làm thêm nhà hát) để hợp thức hóa dự án. Nói cách khác, quy hoạch Hà Nội nói chung, và khu vực Hồ Tây nói riêng, đã bị nhóm lợi ích thao túng.

Gần đây, nhóm lợi ích trong vụ án “Việt Á” và các “chuyến bay giải cứu” đã lợi dụng đại dịch để lũng đoạn thể chế, vơ vét ngân sách nhà nước và móc túi của dân. Trong khi đó, các tỷ phú bất động sản và chứng khoán đã lũng đoạn thị trường và thao túng chính sách để trục lợi, bất chấp các vấn nạn như ách tắc giao thông, ô nhiễm không khí, ngập lụt vì ao hồ bị lấp để xây dựng, cây xanh bị chặt hạ, và hệ thống thoát nước xuống cấp.

Nếu tham nhũng là “giặc nội xâm”, thì đại dịch là “tai họa kép”. Nhóm lợi ích không chỉ vơ vét ngân sách và móc túi dân, mà còn làm cho kế hoạch phục hồi kinh tế sau đại dịch càng nan giải. Theo báo Pháp luật (28/6/2022), trong 10 năm qua7.390 đảng viên đã bị kỷ luật và tù do tham nhũng. Trong số 170 cán bộ cao cấp (diện Trung ương quản lý), có 33 Ủy viên TƯ Đảng, và 50 sỹ quan cấp tướng. Đó chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm”.

Trong bốn Thị trưởng của Hà Nội gần đây, có hai người đã phải “vào lò” là ông Nguyễn Đức Chung và ông Chu Ngọc Anh. Đó là một tỷ lệ quá cao. Nhưng trước đó, ông Nguyễn Quốc Triệu và ông Nguyễn Thế Thảo cũng để lại nhiều tai tiếng. Nói cách khác, trong hai thập kỷ qua, Hà Nội chưa có một thị trưởng nào xứng đáng với thủ đô. Đó không phải là do “dân trí thấp”, mà là do “quan trí lùn”, vì hệ lụy của một thể chế đã lỗi thời.

7/7/2022

N.Q.D.

Tác giả gửi BVN

Quảng Cáo
Bài Liên Hệ
Leave a Comment
Quảng Cáo
WordPress Appliance - Powered by TurnKey Linux