Quyền lực “vô đối” của ông Tổng bí thư Đảng: Nguy cơ tha hoá và thách thức kế vị

- Quảng Cáo -

PGS,TS. Phạm Quý Thọ

Chế độ toàn trị Xô-Viết đã cho thấy quyền lực của đảng cộng sản là vô hạn và được cá nhân hoá trong người đứng đầu đảng giúp ông ta cai trị suốt đời. Dù là Iósif Stalin ở Liên Xô hay Mao Trạch Đông ở Trung Quốc họ đều là điển hình cho thấy việc kế vị họ không thành công dẫn đến khủng hoảng thể chế. Nay việc chế độ quay lại “toàn trị” cho thấy dấu hiệu quyền lực của Tổng bí thư đảng là “vô đối” đồng thời với nguy cơ tha hoá và thách thức kế vị.

Bối cảnh tái lập chế độ toàn trị là sự suy thoái nghiêm trọng của cán bộ đảng viên về tư tưởng chính trị và đạo đức. Nhận định này được nêu trong ba Nghị quyết 4 liên tiếp sau ba Đại hội Đảng toàn quốc 11, 12 và 13 và nhấn mạnh sự cấp thiết công tác xây dựng mô hình Đảng – Nhà nước mạnh như một phiên bản toàn trị. Chế độ này ở Trung Quốc, và Việt Nam là phiên bản với đặc thù, có cội nguồn tập quyền với các đặc trưng chủ yếu: quyền lực tuyệt đối và bao trùm của người đứng đầu; quan chức của chế độ phải được giáo dục tư tưởng, đạo đức và qua tuyển chọn nghiêm ngặt và hệ thống giám sát đặc biệt để duy trì sự ổn định như một nền tảng.

Thực tế quá trình tái lập mô hình chế độ này ở Việt Nam cho thấy vai trò to lớn của Tổng bí thư đảng – ông Nguyễn Phú Trọng. Ông Trọng được đào tạo bài bản về chuyên ngành xây dựng Đảng, và là nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp cho chế độ, từng công tác ở Tạp chí Cộng sản từ năm 1967, là Uỷ viên Bộ Chính trị năm Uỷ viên Bộ Chính trị 1997, kinh qua các chức vụ Bí thư Thành Uỷ Hà Nội năm 2000, Chủ tịch Quốc hội năm 2006, khoá 11, Tổng Bí thư từ năm 2011, khoá 11 đến khoá 13 hiện nay. “Cú huých” trở lại chế độ “toàn trị” đã bắt đầu trong nhiệm kỳ 11 (2011-2016), khi có “sự tranh chấp” quyền lực giữa Tổng bí thư đảng và Thủ tướng Chính phủ trong bối cảnh bất ổn kinh tế vĩ mô. Như đã biết, trong sự dàn xếp nội bộ ông Trọng tiếp tục giữ chức Tổng Bí thư nhiệm kỳ 12 và nguyên Thủ tướng Dũng nghỉ hưu năm 2016.

- Quảng Cáo -

Đây là bài học đắt giá cho Đảng CS và cá nhân ông Tổng bí thư để quyết tâm và kiên trì củng cố chế độ, thúc đẩy toàn trị. Trước hết là việc sửa đổi và ban hành mới các quy chế của Đảng một cách bài bản, trong đó ông Nguyễn Phú Trọng được mô tả là “bậc thầy” về các quy định. Đây là cơ sở đảng luật cho phép tập trung cao độ quyền lực Đảng nhưng nhiều quy định đi ngược  xu hướng thể chế hoá vốn đảm bảo cho sự dẻo dai của chế độ. Chẳng hạn, Quyết định số 244-QĐ/TW không cho phép các Ủy viên BCH Trung ương đề cử các ứng cử viên khác với những người đã được Bộ Chính trị thông qua; Quy định số 30-QĐ/TW về mức kỷ luật của Đảng do Bộ Chính trị đưa ra là bắt buộc… Ngoài ra, nhiều văn bản còn mơ hồ về tính định lượng như về “trách nhiệm chính trị” đã “vội vã” áp dụng với trường hợp từ chức của ông Chủ tịch nước khiến dư luận hoang mang.

Tiếp theo, ông Nguyễn Phú trọng coi công tác tổ chức và nhân sự Đảng như một ưu tiên. Với quyền lực Tổng bí thư ông luôn nắm giữ các vị trí chủ chốt để trực tiếp chỉ đạo. Ngoài cương vị đương nhiên như Chủ tịch Quân uỷ trung ương, ông tham gia thường vụ Đảng uỷ Bộ Công an, nắm các chức vụ như Trưởng ban Văn kiện Đại hội để lãnh đạo đường lối chính sách, Trưởng ban nhân sự để sắp xếp cán bộ và Trưởng ban phòng chống tham nhũng để chỉ đạo xét xử các vụ án kết hợp với thanh lọc bộ máy… Bộ máy các ban Đảng không những chỉ được củng cố ở trung ương từ Bộ Chính trị mà còn mở rộng đến địa phương như ban nội chính, ban kiểm tra…, đặc biệt là ban phòng chống tham nhũng mới được thành lập ở 63 tỉnh thành.

Hơn thế, ông đã lên án các quan tham “ăn không chừa thứ gì” hòng có thể xoa dịu sự bất bình của xã hội, vượt qua trở ngại “kỷ luật hết (quan chức) thì lấy ai làm việc” của bộ phận quan chức dao động để trở thành lãnh đạo có bản lĩnh cách mạng, vì vậy ông đã là “trường hợp đặc biệt” để tiếp tục cương vị Tổng bí thư đảng nhiệm kỳ thứ ba. Nhờ phát động chiến dịch “đốt lò” và thúc đẩy nó lên đến “vùng cấm” nhằm mục đích kép, vừa lấy lại niềm tin của dân vừa ngăn ngừa sự tranh chấp từ giới tinh hoa “cung đình”trong đó đỉnh điểm kịch tính là việc triệu tập liên tiếp các hội nghị bất thường của Ban Chấp hành TƯ và Quốc hội để xử lý cán bộ cấp cao. Sự “vội vã” có thể biện minh bởi đây là cơ hội cần chớp lấy – bài học được rút ra từ việc tranh chấp với nguyên Thủ tướng Dũng năm nào. Sự kiện” các ông Chủ tịch nước và hai ông phó Thủ tướng Chính phủ bị “hạ bệ” đảm bảo quyền lực “vô đối” cho ông Tổng bí thư để có thể thúc đẩy toàn trị của mô hình Đảng – Nhà nước.

Tuy nhiên, hiện nay trong dư luận đang có ý kiến “nên minh bạch lý do Chủ tịch nước từ chức” trước “sự cố” ông ấy tận dụng cơ hội cơ hội trong buổi lễ bàn giao công tác và văn phòng đã thanh minh: “Vợ và các con tôi không tư lợi, tham nhũng liên quan đến Việt Á”. Ngoài ra, sự suy đoán về sự dính líu đến tham nhũng, thậm chí câu hỏi về trách nhiệm chính trị đối với người phụ trách công tác cán bộ và chống tham nhũng được đặt ra cho thấy sự cần thiết phải minh bạch hoá vấn đề. Tuy nhiên, công tác cán bộ lãnh đạo và quyền lực Đảng có cội nguồn từ chế độ phong kiến tập quyền luôn chứa đựng những “bí ẩn”. Vụ án Lệ Chi Viên* đã cho thấy rằng dù bất cứ lý do nào cũng không thể thanh minh trước quyền lực tuyệt đối. Trong trường này nhà vua băng hà “đột ngột” và “bí hiểm” cần có người chịu trách nhiệm nặng nề nhất có thể để quyền lực chế độ không bị tổn hại.

Thiếu cơ chế công khai minh bạch và giải trình trách nhiệm trước dân thì chống tham nhũng không thể hiệu quả. Chế độ Đảng – Nhà nước liệu có thể mạnh lên khi công dân yếu đi? Đây là một biểu hiện của sự “tha hoá tuyệt đối” của “quyền lực tuyệt đối” như Lord Acton đã từng cảnh tỉnh: “Absolute Power Corrupts Absolutely.”

Dù có “anh minh” đến mấy thì cũng chẳng có vị vua hay ông tổng bí thư nào có thể sống mãi để cai trị, và kế vị luôn là vấn đề thách thức. Thời phong kiến tập quyền có “thiên luật” cha truyền con nối. Người con kế vị phải được nuôi dưỡng, “huấn luyện” sao cho đủ anh minh và bản lĩnh để cai trị. Mô hình toàn trị không có được điều này. Dưới thời “độc đoán” ở Trung Quốc nhân vật “kế vị” có thể được biết trước, được “đôn” lên và “thử thách”, nhưng dưới thời Tập Cận Bình đã không còn, và ông ấy đã làm nhiều việc để có thể cai trị suốt đời. Ở Việt Nam hai nhiệm kỳ Đảng 12 và 13 phải áp dụng “trường hợp đặc biệt” đối với ông Tổng bí thư đã cho thấy sự chuyển giao quyền lực đang gặp thách thức thế nào!

(còn tiếp)

————

* Sách sử chép rằng Nguyễn Trãi là khai quốc công thần nhà Hậu Lê, một “mưu thần” trong khởi nghĩa Lam Sơn, khi cuộc khởi nghĩa thắng lợi đã “về quê ở ẩn” tại trang viên có tên Lệ Chi. Bà vợ thứ của ông có tên là Nguyễn Thị Lộ, một người phụ nữ “rất đẹp, văn chương rất hay”. Bà từng được vua Lê Thái Tông sủng ái, gọi vào cung phong làm Lễ nghi học sĩ, ngày đêm hầu bên cạnh. Vị vua này từng có sáu người vợ với những quan hệ tình cảm phức tạp… Trong một chuyến tuần duyên Lê Thái Tông đã nghỉ tại Lệ Chi viên và đột ngột qua đời tại đó. Nguyên nhân cái chết của vẫn là bí ẩn lịch sử, nhưng Nguyễn Trãi, vị công thần, đã bị quy tội “chu di tam tộc” (chém đầu đến 3 họ). Vụ án này xảy ra năm 1442, nghĩa là cách đây hơn 580 năm nhưng vẫn là một bí ẩn.

- Quảng Cáo -